Có lẽ, bất cứ nhà thơ nào, nếu đến nhà Lê Thành Nghị chơi cũng sẽ mơ ước có được một căn phòng làm việc nhìn ra mặt hồ trong lành và thơ mộng như phòng văn của ông ở khu biệt thự Văn Quán. Nó rất phù hợp với những người có tuổi, vừa là một góc riêng tư để ngẫm nghĩ đồng thời cũng là nơi có thể kết nối bạn bè. Dễ hiểu vì sao, lâu nay, thơ ông luôn đậm cảnh trí thiên nhiên, luôn có dòng sông, mặt hồ, luôn có hàng cây, bầu trời, ngọn gió… Đối diện với ông, tôi chợt nhớ cái căn phòng nhỏ ông vẫn thường ngồi làm việc ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội mà nhiều lần tôi có dịp ghé qua. Căn phòng ấy không nhìn ra mặt hồ, không nhiều gió, nhưng khuôn cửa sổ luôn để mở, đủ để nhìn thấy từng chùm hoa đại nở thơm dịu nhẹ, loài hoa mà ông thường ví là linh hồn của những nhà văn, nhà thơ đã mất, ra đi từ ngôi nhà này: "Đôi khi buồn nghe gió trở trên cây/ Thầm lặng khóc từng bông hoa đại rụng/ Nhưng Hoa xuống để thơm hiên nhà...".
Kể ra, gọi Lê Thành Nghị với chức danh nhà thơ e chưa thật đúng với những vị trí mà ông từng đảm nhiệm (trong đó có chức Phó chủ tịch Hội đồng lý luận phê bình - Hội Nhà văn Việt Nam khóa VII). Nhưng theo tôi, ông thực sự là nhà thơ đúng với nghĩa của từ này. Đến nay, Lê Thành Nghị đã là tác giả của 4 tập thơ, trong đó có 2 tập từng được giải thưởng của Hội Nhà văn ("Mưa trong thành phố" và "Mùa không gió"), và gần đấy nhất là tập "Sông trôi không lời", một tập thơ được ông viết trong bảy năm qua.
Nhà thơ Lê Thành Nghị sinh tại Can Lộc, Hà Tĩnh. Tốt nghiệp khoa Ngữ văn Trường Đại học tổng hợp Hà Nội, ông trở thành cán bộ của Viện Văn học. Năm 1972, ông gia nhập quân đội. Đấy là đợt tuyển quân bổ sung cho trận đánh ở Thành cổ Quảng Trị. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, ông về đầu quân cho Tạp chí Văn Nghệ Quân đội. Tại đây, ông được cử sang Liên Xô (cũ) làm nghiên cứu sinh, bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sĩ tại trường Đại học Lômônôxốp (năm 1981). Trước khi nghỉ hưu, nhà thơ, nhà phê bình văn học Lê Thành Nghị là Phó tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Lê Thành Nghị thừa nhận rằng, ông yêu mến và chịu ảnh hưởng của nền văn học Nga cũng như hai nhà thơ Chế Lan Viên và Nguyễn Đình Thi. Nhưng người khơi gợi trong ông tình yêu văn chương không ai khác chính là "ông hoàng thơ tình", người đồng hương với ông - nhà thơ Xuân Diệu. Ông kể: "Năm tôi học lớp 5 ở Trường cấp 2 Thụ Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh thì nhà trường mời nhà thơ Xuân Diệu từ làng Nghèn (Trảo Nha) về nói chuyện thơ với giáo viên học sinh của trường. Tôi không nhớ Xuân Diệu đã nói gì về thơ, chỉ biết rằng, sau đó, mỗi buổi sáng đi bộ trên con đường quen thuộc đến trường, tôi nhận ra được nhiều điều mới mẻ, có khi chỉ là một bông hoa nhỏ xíu tim tím trong lùm cỏ, có khi là bầy sẻ đồng ríu rít bên vạt lúa chín, có khi là mùi bùn hăng ngái từ ao sen làng… Sau buổi nói chuyện ấy, nhà trường phân công một tốp học trò 5 em lít nhít đi tiễn thi sĩ họ Ngô về Nghèn, trong đó có tôi.
Hồi đó, thù lao nhà trường trả cho nhà thơ Xuân Diệu là mấy bị khoai lang mà tôi tin rằng, nếu không có mấy cậu học trò đi về cùng xách thì nhà thơ Xuân Diệu chắc sẽ "bỏ của chạy lấy người" thôi. Cả một quãng thời gian đi bộ 8 cây số ấy, dù Xuân Diệu đôi lúc có hỏi chúng tôi một vài điều gì đó rất qua loa nhưng ấn tượng về ông đối với tôi thực sự rất lớn, nó nuôi dưỡng cho tâm hồn tôi trong suốt những ngày phổ thông. Sau này, khi đã theo văn nghiệp, tôi có nhiều dịp gặp ông và nhắc lại, Xuân Diệu ngúc ngoắc cái đầu nói là... không bao giờ quên kỷ niệm ấy.
Lần khác, vào tháng 12/1979, biết Xuân Diệu sang Liên Xô (cũ), nhân dịp đó, tôi mời ông về Trường Lômônôxốp để nói chuyện thơ với sinh viên Việt Nam học tại trường. Hôm ấy, nói chuyện xong, ông nhờ tôi đưa đi thăm một vài thắng cảnh ở Mátxcơva, nhân thể sắm sửa một vài thứ để chuẩn bị về nước. Còn hơn một chục rúp, ông quyết định mua một chiếc quạt tai voi, loại quạt vào thời điểm ấy được xem là tốt nhất thế giới. Mùa đông nước Nga, gió lạnh hun hút, có những ngả đường tuyết ngập đến đầu gối. Xuân Diệu nai nịt ấm áp rồi cùng tôi mở "chiến dịch" lùng sục quạt tai voi. Hai ngày trời tìm không một cửa hàng nào có, kể cả hàng đồ cũ. Sau mới hay, loại quạt tai voi ấy, Bộ Công nghiệp Liên Xô đã quyết định ngừng sản xuất từ mười năm trước đó.
Tôi vẫn nhớ, khi trở về, ông nói: "Tớ thua! Mà Xuân Diệu ít khi bị đo ván như thế đấy nhá!". Cuối buổi chiều, vừa mệt vừa đói, chúng tôi mua hai ký thịt bò về luộc lên ăn bù cho cuộc truy lùng thất bại của mình. Xuân Diệu vừa ăn vừa đùa: "Coi như ăn tiêu chuẩn thịt quý I năm sau của anh Diệu rồi!". Sau này, cũng một ngày tháng 12 năm 1985, tôi đứng trong một góc khuất nhìn những cây nến cháy lặng lẽ trên linh cữu ông, nghe trọn bài điếu văn nói về "Một cây lớn nằm xuống…" mà nước mắt chảy tràn".
Với tình yêu văn học từ rất sớm, với những kiến thức mà ông tích lũy được, lại được làm việc trong cùng một mái nhà với những Thanh Tịnh, Vũ Cao, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Xuân Thiều..., Lê Thành Nghị từng bước trưởng thành. Lê Thành Nghị tâm sự rằng, mái nhà số 4 - Lý Nam Đế, ở một mặt nào đó, như một ngôi nhà lớn đối với ông. Ông kể: "Có những nhà văn ốm đau lâu ngày, nửa đêm tắt thở trên giường bệnh viện như Nguyễn Trọng Oánh, tôi cùng nhà văn Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Bảo và gia đình Nguyễn Trọng Oánh ôm lấy thân hình nhà văn còn nóng ấm xuống nhà xác. Có những nhà văn nhà ở tận Hải Phòng như Duy Khán, tôi cùng anh em trong tạp chí thức thâu đêm giá rét lo chuyện mai táng khi Duy Khán qua đời. Có lần mùa mưa lũ, khu tập thể Nam Đồng nước ngập tới ngực, thế mà tôi đã cùng nhà văn Nguyễn Trí Huân đã bì bõm trong nước đến nhà lo chuyện đám ma cho chị Lý, vợ nhà văn Hải Hồ... Những ký ức ấy có lẽ sẽ không bao giờ phai trong tâm trí tôi".
Lê Thành Nghị được đánh giá là người cần mẫn, ông cần mẫn với công việc, với thi ca. Dường như sự cẩn trọng và chi chút của ông khiến người ta có cảm tưởng, bất cứ điều gì khi vào tay ông cũng sẽ được hoàn thành ở mức tốt nhất, kỹ lưỡng nhất. Tuy nhiên, với bản tính của một người ít khi nói về mình, nói theo cách hiện đại là ông ít tự PR cho mình, ít đến chốn đông người, ít ngồi quán sá uống đôi vại bia cùng bầu bạn, nên thành công đến với Lê Thành Nghị, vì vậy, cũng ít sự ồn ào. Ông tự nhận mình là một người sống khá "tẻ", theo nghĩa đen, vì ông không biết đánh cờ, không biết uống rượu, không biết hút thuốc lá, cũng chẳng có điều tiếng trong chuyện tình yêu. Nhưng không phải ông không đa cảm, vì nhà thơ nào mà chả xao lòng trước cái đẹp, nhưng dường như với Lê Thành Nghị, bao nhiêu nỗi niềm ông gửi hết vào thi ca, vào câu chữ. Ông âm thầm tự làm lắng lại các xúc cảm để dồn nó lên ngòi bút, như một cách tự thắp lửa cho trái tim mình. Trong bài thơ "Im lặng" viết để tặng nhà văn Nguyễn Thi, ông nói như để tự trải lòng: "Vẫn thường sống trong im lặng/ Vẫn như bản nhạc không lời/ Như lặng im dòng sông mê chảy/ Như lặng im trời xanh mây bay/ Đôi khi buồn nghe gió trở trên cây/ Thầm lặng khóc từng bông hoa đại rụng…".
Thật lạ, hiếm thấy nhà thơ nào ở quá xa cái tuổi mộng mơ với mây trời, trăng sao lại có thể giữ được sự tươi xanh của cảm xúc như Lê Thành Nghị. Tôi đồ rằng, khi làm thơ, đôi chân ông không hề chạm đất, nó như bay bổng ở trên cao vào một cõi khác, nhiều hoa tím, nhiều sông trôi, nhiều lá vàng chấp chới mùa thu, nhiều mây bay lơ lửng ở trên đầu, nhiều cỏ xanh ngút ngát.... Hình bóng cố nhân cứ trộn lẫn vào bóng quê hương, bóng con sông Nghèn, sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố trở về trong ông khắc khoải: "Sông mất một đời trôi đi dại dột/ Tôi mất một đời để quên một người", hay: "Cánh buồm nào đưa người đi biền biệt/ Ngọn gió nào cứ buốt suốt mùa qua/ Mưa trên phố loang dần ký ức/ Ướt trong tay một vệt nắng nhòa/ Ngàn lần mơ sao không một lần thực/ Một tiếng chim in trên lớp bụi mờ/ Người về đó rèm vừa lay gió bấc/ Hay ta vừa tan một giấc mơ…".
Có lần tôi hỏi, liệu trong ông có lúc nào xảy ra sự xung đột giữa người thơ và người của lý luận phê bình? Ông cười, với ông, thơ làm cho phê bình thêm uyển chuyển và phê bình làm cho thơ thêm chặt chẽ và có hồn, những bài phê bình sẽ mềm mại hơn, dễ tiếp nhận hơn. Làm phê bình là công việc của người phải đọc nhiều, điều đó là một nguồn tiếp nhận vô tận để thi ca của ông cất cánh.
Lê Thành Nghị được coi là một trong những nhà thơ vẹn tròn trong nhiều lĩnh vực. Ông may mắn có một hậu phương, một gia đình yên ấm. Ông nói nửa đùa nửa thật rằng, "giang hồ ta chỉ giang hồ tạm", mơ mộng đến đâu rồi cũng phải có một chốn đi về. Giờ đây tuy đã nghỉ hưu nhưng với bản tính "con nhà lính" nên ông vẫn lập cho mình một "thời gian biểu" kín mít: lướt web, đọc sách, viết lách, tập thể thao… Có công việc, họp hành, ông tự lái ôtô riêng vi vu cùng phố phường tấp nập...
Tác giả: Trần Hoàng Thiên Kim
Nguồn tin: VNCA
Ý kiến bạn đọc