Ở Việt Nam, bạn đọc chủ yếu mới biết đến ông với tư cách một nhà thơ, trong khi thực tế, Tagore còn là nhà tư tưởng, nhà triết học, họa sĩ, nhạc sĩ... xuất sắc (ca khúc "Chúa là linh hồn tất cả chúng sinh" ông sáng tác năm 1911 đã trở thành Quốc ca Ấn Độ từ năm 1950), và riêng với mảng văn chương, ông còn là tác giả của những tập truyện ngắn, những cuốn tiểu thuyết, những vở kịch gây được ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả. Ông là một đại diện văn hóa tiêu biểu của Ấn Độ, được xem là "nghìn năm có một"...
Hiện tại, tuy thời điểm diễn ra lễ kỷ niệm 150 năm ngày sinh Tagore (7/5/1861) còn hơn 9 tháng nữa, song, theo như cháu gái nhà thơ - bà Sharmila Tagore - cho biết, đại gia đình bà đang vạch ra nhiều kế hoạch nhằm "quảng bá rộng rãi tác phẩm của Tagore đến công chúng Ấn Độ trong năm tới"...
Tagore sinh tại Calcutta, Ấn Độ. Ông là con út (thứ 14) trong một gia đình thuộc diện đại trí thức. Cha ông là một điền chủ, đồng thời là nhà triết học và nhà hoạt động xã hội có uy tín trong vùng. Các anh chị ông đều là những văn nghệ sĩ nổi tiếng. Ngay từ nhỏ, Tagore đã được hấp thụ một nền giáo dục hoàn mỹ và bản thân ông cũng đã bộc lộ rõ tư chất của một "thần đồng", ứng với tên gọi của ông (có nghĩa là "thiên thần ánh sáng mặt trời"). 8 tuổi Tagore đã làm thơ; 11 tuổi đã dịch được kịch "Macbeth" của Shakespeare; 13 tuổi đã có sáng tác nhạc, họa, đã đọc được sách cổ bằng tiếng Phạn. Điều lạ là thuở nhỏ, Tagore học ở trường không nhiều, thời gian chủ yếu ông học ở nhà với cha.
Năm 1878, khi Tagore vừa tròn 17 tuổi, ông được sang Anh du học. Gia đình muốn ông trở thành một luật gia. Song tại đây, thay vì học luật, Tagore dành nhiều thời gian để tìm hiểu, làm quen với văn chương và âm nhạc phương Tây. Năm 1881, về nước, ông sáng tác vở nhạc kịch đầu tiên, đồng thời cho in tập truyện "Thư của một người đi du lịch châu Âu" trong tạp chí Barati do hai người anh của ông sáng lập. Một năm sau, "Dạ khúc" - tập thơ đầu tay của Tagore ra đời, và tiếp đó là tập "Sự thức tỉnh của nguồn cội". Cả hai tập thơ đều được Tagore viết bằng tiếng Bengali, tiếng mẹ đẻ của ông. Nói chung, thơ Tagor thời kỳ này được đánh giá là kết hợp nhuần nhuyễn giữa "đạo" và "đời", nhưng tác giả chưa thể hiện mối quan tâm lớn đến chính trị.
Bước vào tuổi 24, Tagore lập gia đình cùng một người con gái khi ấy mới...10 tuổi, là người cùng bộ tộc và giai cấp với ông. Thời gian này, vì lý do sức khỏe, cha ông đã quyết định giao lại việc cai quản toàn bộ nhà cửa, gia sản cho ông. Trong suốt những năm sau đó, sẵn điều kiện, Tagore thỏa sức đi du lịch khắp đất nước Ấn Độ rộng lớn. Tác phẩm của ông cũng ngày càng đậm tính xã hội, nhất là ở thể loại văn xuôi. Một số tập truyện ngắn Tagore cho xuất bản trong thập niên cuối của thế kỉ XIX đã phản ánh cuộc đấu tranh quyết liệt của người dân Ấn Độ chống lại sự bạo quyền của những tên thực dân da trắng. Năm 1901, Tagore mở trường tư thục Santiniketan ngay tại trang ấp của gia đình ở ngoại ô Calcutta. Đối tượng học là các nam sinh có tư tưởng tự do, yêu nước.
Trong 5 năm (từ 1902 tới 1907), Tagore phải liên tiếp gánh chịu những tổn thất to lớn: Vợ, con gái, cha, rồi cậu con trai út của ông cứ thế lần lượt bỏ ông mà về bên kia thế giới. Sự mất mát ngỡ tưởng có thể làm Tagore không gượng dậy được, nhưng, nói theo cách của thi sĩ Pháp Musset, thiên tài thức dậy từ chính nỗi đau. Năm 1910, Tagore cho xuất bản bằng tiếng Bengali tập "Thơ Dâng", rồi đích thân dịch tập thơ sang tiếng Anh và cho xuất bản ở London năm 1912. Tập thơ nhanh chóng gây tiếng vang lớn trong giới văn sĩ châu Âu, để rồi một năm sau đó, tác giả của nó được trao giải Nobel.
Xung quanh việc Tagore xuất bản tập "Thơ Dâng" và được giải Nobel cũng có lắm... chuyện kỳ. Chẳng là, trong thời gian nằm điều dưỡng tại một bệnh viện ở quê nhà, Tagore buồn tình đem tập thơ vốn dĩ viết bằng tiếng Bengali của mình dịch sang tiếng Anh. Dịch xong cũng là lúc ông ra viện và lên đường sang Anh. Thoạt đầu ông cũng chưa có ý định phải xuất bản ngay tập thơ ở Anh, nhưng một sự cố xảy ra đã khiến mọi sự vượt ra ngoài tầm kiểm soát của ông: Trên đường tàu điện ngầm ở London, Tagore đã sơ ý đánh rơi hộp đựng bản thảo. Tình thế buộc ông phải loan báo nhờ bạn bè tìm hộ. Mấy ngày sau, cơ quan quản lý tài sản bị mất ở London mời ông đến nhận lại hộp bản thảo. Đấy chính là cơ duyên để bạn bè Tagore, trong đó có một số nhà thơ nổi tiếng ở Anh biết tới nội dung tập thơ mới của ông. Họ đề nghị Tagore sớm cho xuất bản tập thơ (bằng tiếng Anh) để đông đảo công chúng trên thế giới được thưởng thức.
Sau khi tập "Thơ Dâng" được ấn hành với số lượng lớn và gây nên một dư chấn trong đời sống thi ca châu Âu, nhà văn Stuje Moore, một thành viên Hội Văn học Hoàng gia Anh đã giới thiệu tập thơ với Viện Hàn lâm Thụy Điển, đề nghị trao tặng tác giả giải thưởng Nobel văn học. Khi biết tin mình được trao giải thưởng danh giá, Tagore đang ở Mỹ. Không đến Thụy Điển nhận giải, ông chỉ gửi một bức điện cảm ơn ngắn: "Tôi xin chuyển tới Viện Hàn lâm Thụy Điển sự cảm kích, biết ơn của tôi về tầm nhìn rộng đã đem xa lại gần, và biến người lạ thành anh em". Bức điện đã được ông Clive, đại biện lâm thời Anh đọc tại tiệc chiêu đãi giải thưởng Nobel được tổ chức tại Stockholm (Thụy Điển) ngày 10/12/1913, thay cho diễn từ của tác giả. Toàn bộ số tiền nhận giải đã được Tagore tặng lại cho các học sinh của ngôi trường do ông lập ra.
Từ đây, Tagore được sùng mộ, được yêu mến và vinh danh trên khắp thế giới.
Có thể nói, bước vào thế giới thơ của Tagore, ta dễ có cảm giác ngỡ ngàng như bước vào một khu rừng thâm nghiêm, thần bí. Ở đó, cành lá ken dày và luôn phát ra những tín hiệu lạ, tỏa những hương vị lạ. Và bầu không khí thì đượm vẻ siêu thoát... Trái tim trần tục của ta bỗng dưng đập nhịp khác thường, như thể ta đang bước đi trong lãnh địa của một vị giáo sĩ đầy uy lực. Nhưng rồi, chỉ sau ít phút, khi tâm hồn đã tìm lại được sự yên tĩnh cố hữu của nó, ta bắt đầu nhận thấy quanh ta, từ thẳm sâu cành lá - văng vẳng một giai điệu trẻ trung, yêu đời, một thế giới của những sắc màu, hương thơm quen thuộc bỗng chốc mở ra, rõ ràng và bình dị...
Dân tộc Ấn Độ có câu ngạn ngữ rất hay: "Trước tình yêu, vua và dân như nhau". Tình yêu đã không phân chia ranh giới đẳng cấp thì tình yêu cũng xóa nhòa mọi tín ngưỡng và tôn giáo... Đến với tình yêu, ta thấy Tagore cũng "người trần" như tất cả các chàng trai khác trên thế gian. Ông khao khát được yêu, mong muốn tìm được người tri âm, thậm chí là người của một thế kỷ nào đó sau khi nhà thơ đã khuất. Khi Tagore viết: "Anh không giấu em một điều gì/ Chính vì thế mà em không biết gì về anh cả" là ông rất "sâu sắc nước đời", hiểu những điều tưởng chừng nghịch lý nhưng lại rất biện chứng của tình yêu. Và khi ông kể lại câu chuyện một cô gái đã kiên quyết gạt bỏ mọi lời tỏ tình, mọi cử chỉ âu yếm của một chàng trai, chỉ khi chàng bỏ đi thì mới giật mình thổn thức: "Ai đó, sao không trở lại?", điều ấy chứng tỏ ông rất am hiểu tâm lý người đang yêu, đặc biệt là của các thiếu nữ. Ở đây, chúng ta có thể tin lời Ilya Erenburg: "Thanh niên Ấn Độ khi yêu nhau thường đọc thơ tình của Tagore".
Sinh thời, Tagore từng đặt chân tới nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ. Năm 1929, trong hành trình đi thăm một số nước châu Á, Tagore có ghé qua Sài Gòn 3 ngày. Cũng trong năm này, ông tổ chức triển lãm tranh ở Munich, New York, Paris, Moskva...Tagore được xem như biểu tượng tuyệt vời về sự kết hợp giữa văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây.
Tagore qua đời tại Calcutta vào đúng năm ông tròn 80 tuổi, để lại một di sản đồ sộ gồm trên một nghìn bài thơ, 42 vở kịch, 12 cuốn tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, bút ký, tiểu luận cùng hàng ngàn bức vẽ, hàng ngàn bài hát...
Như ở đầu bài đã nói, Tagore sáng tác chủ yếu bằng tiếng mẹ đẻ rồi sau đó trực tiếp chuyển sang tiếng Anh, tuy nhiên, số tác phẩm ông dịch sang tiếng Anh cũng chỉ chiếm non nửa. Trong khi, tiếng Bengali chỉ là một thổ ngữ trong hàng trăm thổ ngữ của Ấn Độ nên đa số người Ấn Độ học vấn trung bình không đọc được thơ Tagore. Có lẽ vì thế mà ý kiến của bà Shamila Tagore - cháu gái nhà đại thi hào - là cần phải dịch các sáng tác của Tagore sang tiếng Hindi (thứ tiếng hiện được trên 40% người dân Ấn Độ sử dụng) hơn là sang tiếng Anh, là một ý kiến nghiêm túc rất cần được lưu tâm.
Tác giả: Lưu Thanh Minh
Nguồn tin: VNCA
Ý kiến bạn đọc