1. Khi con người có đời sống tâm hồn để cảm giao, tương tác với thiên nhiên, với cuộc sống quanh mình, đồng nghĩa nỗi buồn vui xuất hiện. Nỗi buồn vui, niềm xúc cảm hẳn là một cuộc hành trình không hề ngắn trong tâm hồn con người. Bởi những ý niệm, khái niệm mỏng manh mà cao quý này chỉ có thể có trong não trạng, tâm tư con người khi con người nhận biết được thế giới trong tính cộng cảm, cộng sinh giữa con người với tất cả. Nỗi buồn dìu dịu và sâu nặng. Niềm vui se sẽ và sâu sắc. Và từ cơ sở tiên đề đó Đời Sống Con Người bắt đầu cất lên tiếng nói.
Tiếng nói - hiểu theo nghĩa âm thanh đơn tính, có từ bao giờ trong con người và nó xuất hiện đồng thời hay trước tiếng hát? Hẳn tiếng nói bản năng có từ trước, sau tiếng hát đầy cảm xúc và lý tính mới hình thành. Và cũng từ giai âm ngân nga nơi thanh quản, trong vòm ngực mang tên là Tiếng hát đó cũng đồng nghĩa với một tên gọi, sau này văn học thành văn phân loại làm một loại hình nghệ thuật là dân ca, ca dao. Vâng, và cũng xin được thưa rằng, ở phương trời nào không hay chứ ở phương trời, khoảng đất có tộc người Lạc Việt sinh sống thì tất thứ giai âm dân ca, ca dao đầu tiên đó có một giai âm đồng xuất hiện như một thuộc tính văn hoá tự nhiên của tộc người, mang vần điệu câu sáu câu tám.
Thể thơ - dân ca câu sáu câu tám vì sao lại có cấu trúc vậy, nguồn gốc của nó từ đâu, từ bao giờ? Người Chăm cũng có thơ lục bát. Thái Lan được xem cũng có thể thơ 6 - 8, song thể thơ này đã không được phát triển có tính phổ quát cao ở nước Thái, vả lại văn hoá Thái Lan và Chăm, có sách nói ít nhiều chịu ảnh hưởng dòng văn hoá Phù Nam, chảy từ cơ sở văn hoá phương Nam - miền Nam nước Việt. Cổ sử, còn có sách nói về chủng tộc và địa lý dân tộc Chăm, Lào và một phần diện tích phía Đông nước Thái Lan bây giờ vốn thuộc đất của người Việt. Tộc người Lạc Việt hàng ngàn năm nay được xác định và tự hào có một nền văn minh lúa nước và văn hoá của dân tộc trồng lúa nước thuộc dòng văn hoá thuộc âm, trọng tĩnh. Vì dân trồng lúa thì phải dụa vào nguồn nước, thích hợp với việc định cư trong một không gian nhất định và vì vậy là dòng văn hoá thuộc âm. (Âm - dương, trong thuyết âm dương, ngũ hành xuất phát từ sách kinh Dịch. Một cuốn kỳ thư cũng đang có nhiều ý kiến cho rằng sách của người Việt làm ra, sau bị văn hoá Trung Hoa chiếm dụng bản quyền). Theo sách Dịch, về tượng số học thì những số lẻ 1,3,5,7,9 thuộc dương, số chẵn 2,4,6,8,10 thuộc âm. Cũng theo cách tính này, hai số thuộc âm là 6 và 8 là số sinh, còn số 10,2,4 là số thành. Từ cơ sở văn hoá cổ - thời ca dao, dân ca mà xét thì thể thơ - dân ca, ca dao câu 6 câu 8 được ra đời từ nguồn gốc nền văn minh lúa nước, văn minh Văn Lang, thuộc âm, trọng tĩnh không phải là không có cơ sở.
Thế giới loài người lập thành, sinh sôi nẩy nở bởi có đàn ông và đàn bà, giống đực giống cái, nghĩa là có âm có dương. Một thời gian dài lịch sử loài nguời được thiết lập trên cơ sở Mẫu hệ. Lịch sử nước ta, thời Mẫu hệ có trước thời các vua Hùng. Xã hội con người dù xây dựng theo mô hình Mẫu hệ hay Phụ quyền, dù còn sơ khai hay đã phát triển thì cùng với sự phát triển cơ chế bộ tộc, bộ lạc, quần cư trồng trọt, săn bắt, vui chơi tất phát sinh nhu cầu bày tỏ tâm tình, biểu nộ ý nghĩ, ý thức và đến khi đó thái độ văn hoá cũng từng bước hình thành, tạo tiên đề cho một dòng chảy lớn mang tên: Dòng Văn hoá - Văn học dân gian là ca dao, dân ca xuất hiện.
Trong dòng văn học sử thành văn hay dân gian, về nghệ thuật thơ luôn có sự cách tân thay đổi. Nhất là từ đầu thế kỷ 20 trở lại đây khi sự giao thoa giũa các nền văn hoá - văn học Đông Tây trở nên rộng khắp thì sự cách tân nghệ thuật càng là một đòi hỏi lớn, tiên quyết. Cũng chính bởi vậy, từ cách nhìn này càng thêm bội phần vui mừng khi thấy đã có không ít loại hình, thể cách thơ ca đã lỗi thời, đã bị quên lãng thì thể thơ câu 6 câu 8 vẫn được yêu thích và phát triển thành dòng văn học có tính hàn lâm. Để có được sự bền vững vậy, bởi đây chính là tiếng lòng, phẩm tính tâm hồn của người Lạc Việt, là cung cách ứng xử trước thiên nhiên, vũ trụ của người Lạc Việt. Người Lạc Việt bằng khả năng mẫn cảm, tiên cảm tuyệt vời của mình khi đã lựa chọn vần điệu và biết nuôi vần điệu với những bằng trắc ngôn từ trong hệ tượng số kỳ diệu, bí nhiệm là số 6 - 8, số sinh của trời đất này. Thơ ca luôn đòi hỏi được nuôi trong những tâm hồn trong trẻo, hồn nhiên, mãi mãi ấu thơ của con người. Tượng 6 và 8 trong nghệ thuật thuộc dòng văn hoá thuộc âm, lấy số sinh để nuôi dưỡng phẩm tính ngôn ngữ, tiếng hát cho tâm hồn con người là bởi thế. Ấy quả là một tượng số học - một thể thơ Mẹ - nguồn sinh sôi nẩy nở vô cùng.
2. Trong dòng văn hoá, văn học dân gian và thành văn của nước ta thể thơ câu 6 câu 8, gọi theo âm cổ là Lục bát, là một thể thơ mang tính tạo nguồn cho sự hình thành nhiều thể loại dân ca khác. Đây là điểm vô cùng quý giá và riêng biệt khó có một thể loại văn học, thơ ca nào sánh cùng. Qua khảo sát các làn điệu dân ca thì thấy trên mười làn điệu lấy âm vận, điệu vần của thể lục bát làm ca từ và rõ ràng ở các làn điệu dân ca này mà không mượn âm vận, nhịp điệu qua các thanh bằng trắc, phù trầm trong sự lên xuống, đối đãi qua lại nhịp nhàng của câu 6 câu 8 thì khó phát triển thành điệu thức âm nhạc như đã có được. Ấy là các làn điệu dân ca quan họ, ca trù, trống quân, hát chèo, chầu văn, hát xẩm, hát đúm, hát ru con, hát giã gạo, hát gặt lúa, hát đò đưa, hát phường vải, hò Nam ai, Nam bình…cùng với một kho tàng ca dao được viết bằng thể thơ này. Bởi vậy, nói không ngoa lục bát là thể mẹ - nguồn sinh của cả một đàn con trữ tình, trường sinh bất lão. Và bội phần vui sướng cho bà mẹ lục bát, ngày nay đàn con được dưỡng nuôi từ mẹ đã tới ngày trưởng thành lớn lao, tầm vóc không chỉ giới hạn trong mảnh đất quê hương mà đã thành ra giá trị văn hoá chung của nhân loại. Đó là hai thể hát quan họ, ca trù đã được công nhận là di sản văn hoá phi vật thể thế giới. Cũng như thi hào dân tộc Nguyễn Du từ lâu đã được vinh danh là Danh nhân Văn hoá Thế giới với sức tác thành quan trọng bậc nhất“lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” của tác phẩm Truyện Kiều và tác phẩm bất hủ này được viết lên không bởi thể thơ nào khác ngoài thể thơ Lục bát. Và không phải ngẫu nhiên thơ Việt
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra…
Từ cội nguồn văn hoá đến thể loại dân ca, ca dao và kết quả đỉnh cao: Hình thành một thể thơ dân tộc, nhịp điệu câu sáu câu tám, âm trắc khi nổi khí sắc thì thế Tày non Thái, âm bằng êm ả nhịp nhàng tựa Nguồn khởi suối sông chảy mãi khôn dừng.
Quý báu thay nhịp chuyển của 6 và 8!
Tuyệt kỳ thay điệu hồn của nòi giống Tiên Rồng!
Đỗ Trọng Khơi
Nguồn: Văn học quê nhà
--------------------------
Ghi chú:
Ý kiến bạn đọc