Ngụ ngôn tháng Tư – Truyện ngắn của nhà văn Trần Thị Tú Ngọc
Thứ hai - 04/04/2022 04:102.0950
Quê quán: Phú Phong - Hương Khê - Hà Tĩnh - Sách đã xuất bản: Ngụ ngôn tháng Tư - Tập truyện ngắn- NXB Dân trí. 2019. - Sách in chung: Tuyển tập truyện ngắn hay 2019. NXB Hội nhà văn. Tuyển tập truyện ngắn hay 2020. NXB Văn học Tuyển tập truyện ngắn hay 2021. NXB Văn học Tuyển tập truyện ngắn chọn lọc báo Nhân Dân. NXB Văn học - Giải thưởng: + Giải Ba cuộc thi truyện ngắn Lửa Mới Tạp chí Văn nghệ Quân đội. + Giải C của Uỷ ban Toàn quốc Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam. + Giải B giải thưởng Văn học nghệ thuật Nguyễn Du lần thứ VII + Giải Nhì cuộc thi Truyện và ký Tạp chí Hồng Lĩnh. + Giải Nhất cuộc thi Sáng tác văn học Tạp chí Văn nghệ Bình Định + Giải Ba cuộc thi Thương nhớ miền Trung báo Thanh Niên
Thotre.com xin trân trọng giới thiệu truyện ngắn của chị
Ngụ ngôn tháng Tư – Truyện ngắn của nhà văn Trần Thị Tú Ngọc Tháng Tư ngầu bụi. Không có mây. Không có mưa. Chỉ những cơn gió khô khốc đưa móng vuốt lồng lộn cào qua đám cỏ cháy. Đất trời rùng rùng. Không khí căng phồng. Nứt nẻ. Tôi đi tìm một bông súng đỏ. Những bờ sông lở lói nhìn tôi giễu cợt. Tàu hút cát chạy ầm ầm. Đến cây to còn tróc rễ đổ xuống nữa là yếu ớt như phận sen phận súng. Những con mương trơ lòng ngập trong rác rến. Chuột bọ chết trương bụng. Đám trẻ con lem luốc quệt nước mũi lòng thòng. Bà lão bán bánh bò ở Châu Đốc nhọc nhằn chèo xuồng đưa tôi qua đầm nước sắp cạn khô. Thở dài não ruột: thật hết biết tụi trẻ bọn bây, chẳng nhớ gì ráo trọi. Muốn tìm hoa súng phải đợi đến tháng chín tháng mười, về đây khi mùa nước nổi nghen con. Nói vậy nhưng chính bà cũng không biết mình có lẫn hay không. Đã mấy năm rồi không có mùa nước nổi. Nghe thèm bông súng bóp xổi với dấm và đường cát, thêm chút rau răm, chấm với nước mắm kho quẹt hay nước tương kho, nhắc đến đã nhểu nước miếng. Sang hơn thì tước cọng súng nấu canh cá trê, cá linh, cá sặc đồng, húp một miếng nghe đã rồn rột. Không có nước, súng quắt queo chẳng trổ nổi bông, tôm cá cũng bỏ đi hết. Đất đai mặn xót. Tôi không nghe bà lão lẩm bẩm những gì. Tôi nghĩ đến Nguyên khi ngồi trên con xuồng luồn lách qua những đám lục bình héo rũ. Nguyên có đợi được đến mùa nước nổi. Nước mình đâu đâu cũng ao đầm sông suối. Bạt ngàn súng tím, súng vàng, súng trắng, súng xanh. Có lần tôi bảo, nếu được chọn, anh sẽ lấy quốc hoa là hoa súng chứ không phải hoa sen. Hoa súng cũng đẹp cũng thanh chẳng kém sen, lại chỗ nào cũng có, chớ sen giờ còn mấy nỗi. Bảo quốc hoa mà phải tìm trên mạng để coi thì sao được. Nguyên bật cười: anh nói ngon ha. Ngoài đó có cái hồ Hoàn Kiếm lại gọi tắt là hồ Gươm. Tới lượt quốc hoa liền lấy luôn hoa súng. Tôi chịu. Nhớ lần đi Ấn Độ, ông lão chạy xe tuk tuk khi biết tôi đến từ Việt Nam liền hỏi: Bên đó đánh nhau xong chưa? Nghe ông nói mà mình cười như mếu. Nghĩ tới đất nước mấy nghìn năm tay chẳng mấy lúc rời súng rời gươm. Máu đổ xuống biết bao nhiêu mà kể. Vậy mà giờ không kiếm đâu ra bông súng đỏ. Hay tôi về Búng Bình Thiên. Mùa này vẫn mênh mang nước?
*** Tháng Ba năm 1782, Nguyễn Huệ đưa quân nam tiến, đụng trận dữ dội với Nguyễn Ánh ở sông Ngã Bảy và cửa biển Cần Giờ. Nguyễn Ánh thất trận dẫn tàn quân chạy trốn xuống phía nam, bên Tây Sơn có tướng Võ Văn Vương đuổi theo sát nút. Quân Nguyễn Ánh đi suốt ngày đêm không dám nghỉ. Tới ngày thứ bảy thì họ vượt qua một con sông lớn chảy từ Cao Miên sang. Qua xứ cù lao, tiến sâu vào một vùng mênh mông hoang địa. Xứ này vốn trước đây là đất Tầm Phong Long được vua Nặc Tôn dâng cho chúa Nguyễn để tạ ơn giúp củng cố vương triều. Dẫu các chúa Nguyễn đã ra sức khai phá, nhưng vì thủy thổ khắc nghiệt nên dân cư vẫn còn thưa thớt. Đang giữa mùa khô, lương thực cạn kiệt, nước uống mang theo cũng hết, xung quanh rặt một màu cằn cỗi của cà na giữa sình lầy hôi thối. Quân sĩ kiệt sức gục xuống trong cơn khát cháy họng. Đây đâu phải thời Tam Quốc, để nói rằng phía trước có rừng mơ. Võ Văn Vương nôn nóng lập công nên tiến binh quá nhanh, tiếp viện phía sau không theo kịp. Binh sĩ vốn toàn người Bắc hà. Kết quả cùng bị kẹt giữa đồng hoang. Hai bên cầm cự nhau giữa mùa nắng lửa. Mỗi ngày bên nào cũng có vài người chết. Xác chết khát đều giống nhau, cổ họng sưng phồng, nhưng thi thể không trương sình lên mà khô lại đen kịt. Trận đó không đánh mà mấy trăm người vong mạng, tới mùa này đom đóm bay đầy bên bờ Búng Bình Thiên. *** Chuyện hai ông tướng kìm chân nhau ở cù lao An Phú, tôi được ông Tư Ròm kể cho nghe trong một lần điền dã về miền Tây. Ông Tư chừng hơn bảy mươi tuổi, người cao khòng, lông mày hơi xếch mà sợi nào cũng mọc dài rủ xuống trông rất ngộ. Hai người một già một trẻ nhậu ngay trên sạp thuyền, giữa đồng nước mênh mông hoàng hôn xuống đỏ ối. Mồi câu gỡ ngay từ dưới hồ lên, cá sặt, cá chốt, cá rô lớp chiên lớp nướng giòn rụm. - Vậy chớ con đọc trong sách, nghe biểu ông này hay ông kia tới xứ này mùa hạn, thiếu nước, lập bàn cúng tế trời đất rồi rút gươm đâm xuống nước ngọt trào lên thành cái búng này đó tía. Ông lão bó gối nhìn ra mặt nước mênh mông, mấy cái cây ô môi đứng chơ vơ bên kia bờ đầm nhòa dần trong bóng tối. Giờ lâu ông mới nói: - Chuyện đó tao cũng nghe người ta nói, ai muốn tin thế nào thì tin. Ờ nghĩ cũng hay ha. Cái xứ này hồi trước dữ lắm, toàn cá sấu rắn rết với muỗi mòng, đỉa thì nhung nhúc vô thiên. Có ai sống nổi đâu. Vậy mà mình tới đây khai khẩn. Rồi lớp này lớp nọ kéo qua đánh nhau. Người chết nhiều gấp mấy mươi lần người sống. Như cái hồi giải phóng đó mậy, mấy ổng đụng nhau cả trăm trận, tới giờ xương cốt bốc hoài chưa hết. Nhưng ghê gớm nhất là cái đợt năm bảy tám. Cũng tháng Tư vậy nè. Tự nhiên đang yên đang lành bên kia biên giới tràn sang, giết một lúc mấy nghìn mạng người. Mà toàn bằng cuốc xẻng mới ghê. Lúc đó đang giữa mùa khô, sau một đêm máu nhuộm đỏ đồng, sáng ra bỗng nhiên súng nở bông khắp xứ. Cả một vùng bạt ngàn bông nào bông nấy đỏ bầm như máu. Đêm đó tôi trở mình mãi trên con đò chênh chao, thao thức trông ra bờ đầm tối sẫm. Xa xa mấy chiếc thuyền câu nhà ai sáng đèn le lói. Nhìn mờ mờ ảo ảo cứ nhập nhòa như bầy đom đóm kéo về. Những hồn oan trong trận đánh năm xưa đã siêu thoát được hay chưa. Chỉ mơ màng nghe trong mênh mang sông nước, lẫn giữa bùn non ngai ngái, thoang thoảng mùi hương bông súng đỏ. Tôi về lại Sài Gòn, kéo Nguyên đi dạo lòng vòng cho đỡ nhớ. Nguyên của tôi vốn dân gốc mấy đời quận Nhất. Từ thời cụ cố đã có sạp vải to nhất chợ Bến Thành. Hồi mới ngoài bắc vào tôi gặp bà nội Nguyên, bà lão gần chín mươi mà da dẻ hồng hào như con gái mười tám. Hỏi bà hồi chiến tranh mình ở trong thành cuộc sống nó ra sao. Bà bảo chuyện đánh nhau bà không có biết. Lúc căng nhất thì cũng nghe bom rơi đâu đó bên miệt Thủ Thiêm, chứ dân đây cứ thường thường mà mần ăn buôn bán vậy thôi. Cho nên hồi tháng tư năm bảy lăm mấy ổng tiến vô, cậu em kêu tui chạy lên nóc nhà trực thăng nó bốc ra tàu qua Mỹ mà tui đâu có đi. Tới đận cải tạo tư sản, muốn đi lại không được nữa. Giờ già rồi, chỉ mong yên ổn đợi lúc nằm xuống là xong. Ba Nguyên vượt biên sang Mỹ bốn năm sau giải phóng, cưới một bà người da trắng, lâu sau đó mới sinh ra Nguyên. Nhưng rút cục lòng vòng rồi Nguyên lại quay về Việt Nam sống cùng bà nội. Nguyên học bên lịch sử, tôi làm báo cho quân đội. Gặp nhau, quay qua quay lại thế nào lại nói chuyện chiến tranh. - Này anh - Nguyên khuấy cốc cà phê đã tan hết đá - mình kể chuyện gì khác đi. Chuyến nào đi về anh cũng ì ùng súng đạn với cờ bay phấp phới. Nói hoài không chán sao. Tôi biết nói gì với Nguyên, như vô vàn những người lính tôi đã gặp, đột ngột rơi tõm vào lặng im khi tôi khẽ khàng xen vào một câu hỏi riêng tư giữa trận chiến. Vậy chớ hồi đó ở trong bưng, chú Hai có thương ai không. Hồi đó mùa nước nổi chú Ba nằm hầm nó ra làm sao, ăn uống nó ra làm sao. Cô giao liên dẫn chú Tư băng đồng hôm đó tóc dài hay tóc ngắn. Mấy chú bỗng nhiên im bặt. Giữa dằng dặc chiến tranh tơi bời đạn lửa, những nỗi niềm nho nhỏ bị vùi lấp đi tuyệt mù vô tăm tích. Giờ có tìm cách khơi gợi lại cũng chỉ là một khoảng trống mênh mang, mất mát, hoang hoải như cánh đồng mùa nước lên sóng gợn tới chân trời. *** Tôi kể Nguyên nghe về ông Tư Ròm tôi gặp bên Búng Bình Thiên. Đó là những năm tháng dữ dội trên biên giới Tây Nam, còn khốc liệt và đẫm máu hơn cuộc chiến tranh mà chúng ta mới vừa bước ra trước đó. Đánh nhau liên miên, nhưng với người lính, súng đạn gầm thét không đáng sợ bằng những phút giây im lặng trên chiến trường. Trước và sau mỗi trận đánh, là một khoảng thẳng căng, vắng rợn. Ông phụ trách khẩu M40 106 mm, một loại hỏa lực cực mạnh ta thu được của chế độ cũ mà chỉ có rất ít người được đào tạo bài bản mới biết sử dụng. Khi xung trận, uy lực của M40 làm quân địch nhiều phen kinh hoàng. Nhưng điều đó xoáy sâu vào lòng ông một nỗi buồn thăm thẳm. Hận thù sẽ chìm đi khi đã buông súng sau cuộc chiến mà những ranh giới mỏng manh vẫn không thể bước qua. Ý kiến của ông tham gia vào các kế hoạch tác chiến đều bị gạt đi bởi cái nhìn nghi ngại của cấp chỉ huy. Nhiều người lính trẻ măng ngã xuống vì sơ suất điều nghiên không đáng có. Lẽ nào đổ lỗi cho chiến tranh để lòng thôi day dứt. Cô y tá người Bắc có đôi mắt rất trong đã từng hỏi ông như thế. Quê cô hình như đâu đó bên suối Yến, tháng mười hoa súng dệt hồng hai bên bờ sông uốn mình như dải lụa. Cô phải viết đơn bằng máu mới được ra chiến trường. Họ đã gặp nhau trong một cái nhìn rất lặng. Những khi hoàng hôn vàng rực buông xuống bên trời, một cánh chim chao nghiêng giữa thinh không thăm thẳm, cô dõi mắt về nơi xa xăm và khẽ hát: Trong gió bay đi tôi nghe mùa hạ về/Mùa thu chưa đến, tôi nghe mùa hạ đi/Ôi những mùa mưa, mùa nắng màu rất lạ/Mùa này tôi thấy, bao nhiêu áo quan về. Tiếng cô lẫn vào trong gió như thanh âm nức nở lùa qua vòm cây thốt nốt trầm u. Giữa đổ nát hoang tàn của đền tháp sẫm dần trong bóng tối, điệp khúc da diết của Trịnh Công Sơn ngân lên đau xót và buồn thương. Mắt ông nhòa lệ. Chuyện đến tai chính ủy sư đoàn. Không biết cấp chỉ huy đã nói gì mà khi trở về, cô y tá úp mặt vào đôi bàn tay để những người thương binh không thấy cô đang khóc. Cô được lệnh ngay lập tức chuyển về tuyến sau, nhưng mới ra khỏi vị trí đóng quân đã vấp phải mìn địch phục kích gài lại. Vết thương quá nặng, khi ông hay tin thì cô gái đang hấp hối trong trạm phẫu. Cô chỉ tiếc trước khi nhắm mắt không được nhìn lần cuối một bông hoa súng. Lúc đó đang tháng Tư, giữa mùa khô kiệt nhất. Ông điên cuồng băng đồng lội ruộng trong tuyệt vọng, bất chấp lúc nào cũng có thể đụng địch mong kiếm về cho cô một bông hoa. Vậy mà cuối cùng ông cũng thấy. Giữa mùa nắng lửa. Nở bừng một bông súng đỏ tươi như máu. Hết chiến tranh, ông về bên Búng Bình Thiên, sống đơn độc một mình. Bây giờ đi dọc bờ búng, ông Tư Ròm đã mất lâu rồi, tôi không nhớ nổi chuyện đó là ông Tư kể cho tôi, hay tôi nằm mơ thấy rồi tưởng tượng ra. Nhưng thôi. Tìm hiểu kỹ ngọn ngành làm gì. Mất mát và đau thương nhiều quá, có khi phải dựa vào một cánh hoa yếu ớt, để mà trụ lại giữa dằng dặc bão giông. *** Mãi rất lâu sau này, nhiều lần qua lại dọc mạn sông Châu Đốc, tôi mới hay ông Tư Ròm cũng như nhiều người xứ này trước đi lính cho chế độ cũ, tới đận Pon pot tràn sang, lại tình nguyện qua chiến đấu bên Campuchia. Hai cuộc chiến mang hai màu áo khác nhau, nên tới lúc hòa bình trở về, lòng có lúc chênh chao như sóng. Bởi lòng người đâu có ai cũng bao dung được như Búng Bình Thiên, mùa khô hay mùa mưa đều có nước. Bởi nhiều lúc tháng Tư về, nhà này treo cờ đỏ loa mở tưng bừng thì nhà kia âm thầm đóng kín cửa. Đóng kín cả cõi lòng. Bởi nhiều lúc đang yên ổn làm ăn, có người lại nhắc chuyện từ thời xa lăng lắc nào đó, một ông vua bên này dâng đất cho một ông vua bên kia, để con cháu cứ vin vào đem ra cự cãi. Những lúc lòng rối bời như sóng, tôi lại tìm đến Nguyên. Ngồi nghe Nguyên hát “Ngụ ngôn của mùa đông” trong quán cà phê nhạc Trịnh: Một ngày mùa đông/Một người Việt Nam/ Ra bên dòng sông/ Nhớ về cội nguồn/ Từ đó ra đi/Một ngày mùa đông/ Một người Việt Nam/ Thôi ra dòng sông/ Súng nổ thật gần/ Tiếng đạn đầy hồn/ Từ đó bâng khuâng/ Nhớ thuở mẹ bồng/ Lời ru trong sáng/ Nhớ mẹ hiền lành/ Ngồi với đàn con. Nguyên của tôi, hai mươi lăm tuổi, tóc nâu, mắt nâu, một hình xăm hoa hồng bên vai trái. Tôi mãi mãi nhớ dáng nàng ngồi nghiêng nghiêng bên cây đàn ghi ta, nhớ đôi mắt nàng lấp lánh như hai ngọn lửa nhỏ, nhớ tiếng thở dài rất khẽ khi chỉ có hai người lặng im. Giữa Sài Gòn rộng lớn này, chúng tôi chỉ bé như hai hạt cát. Vậy mà những lần lang thang bên nhau đó, cuối cùng cũng đến tai bố mẹ tôi ngoài Hà Nội. Bố tôi gọi tôi về Bắc, một chuyến bay dài hơn hai nghìn cây số, chỉ để hỏi: Bố nghe dạo này con vào trong đó giao du rộng rãi lắm phải không? Mẹ tôi nhỏ nhẹ khuyên bảo. Con phải nhớ con là ai. Phải nghĩ tới cuộc đời cống hiến của bố con. Phải nghĩ tới vị trí mà con đang có. Rồi còn tương lai của con cháu sau này nữa. Nhiều thứ như thế, tôi nhớ sao hết. Tôi gánh sao nổi trên hai vai này. Hà Nội tháng Tư không quá nóng, cũng chưa inh ỏi tiếng ve, vậy mà tôi nghe đầu ong ong như sắp vỡ. Bố mẹ nhìn tôi như một kẻ sắp sa ngã, sắp đào tẩu, sắp phản bội cả gia đình dòng họ. Tôi và Nguyên đã làm gì nên tội. Ngày đó tôi chưa kịp hỏi ông Tư, trong cái trận đánh nhau thời Tây Sơn đó, vậy rồi tại sao cuối cùng tướng Võ Văn Vương lại tha cho Nguyễn Ánh, để ông ấy thoát ra được ngoài đảo Thổ Chu. Tôi cũng không hỏi ông ngày đó cô y tá người Bắc có biết ông thương thầm cô không. Hay là cô cũng thương ông mà không dám nói. Nhưng điều tôi day dứt nhất, là không biết cái bông súng đỏ đó, cái bông súng mà ông tìm được giữa tháng Tư khô kiệt, có kịp mang về cho cô gái đó trước khi cô mất hay không. *** Bà má người Châu Đốc cho tôi ở nhờ, đã ngoài bảy mươi tuổi mà chưa chồng nên người ta vẫn gọi là cô Ba. Ở vùng này ai cũng biết cô Ba bán bánh bò. Bánh của bà làm từ bột gạo, với đường thốt nốt, thêm một vài bí quyết gia truyền, dậy mùi thơm không tả nổi. Nhà bà cất ngay bên bờ kinh, sàn ghép bằng ván, đêm nằm nghe gió lùa mát rượi. Ba giờ sáng tôi trở dậy ngồi coi bà hấp bánh bò, từ từ chuyện nọ chuyện kia rồi hỏi: Vậy chớ hồi nào tới giờ cô Ba có thương ai không. Bà cười mủm mỉm: Có chớ. Hồi xưa cô Ba cũng có thương một người. Hai bên tình cảm dữ lắm. Nhưng mà nghèo quá không đăng đối, nên thôi mình giãn ra khỏi tội người ta. Ổng không hiểu vì cớ gì mình từ chối nên buồn lắm, cứ đón đường tìm cô Ba hoài mà tui lánh mặt. Giờ ông đó còn không cô Ba? Ông mất lâu rồi con. Ông đi lính hồi năm bảy mươi cho chế độ cũ, tử trận cũng chưa vợ con gì. Nhà đó di tản qua Mỹ hết. Mộ ổng nằm giữa đồng hoang, mấy lần loạn lạc, chẳng biết thất lạc từ đời nào. Đêm u u gió. Đom đóm bay rợp bờ kinh Vĩnh Tế. Tôi nghĩ nếu trong những linh hồn xiêu dạt đó có ông người yêu cũ của cô Ba, thì lúc nửa đêm ghé qua lò bánh bò này, ông cũng chẳng nhận ra cái người mình thương mình nhớ khi xưa nữa. Người chết còn trẻ mãi. Không chừng lại hỏi này chớ bà già ơi, bà có biết cái cô tóc dài dài da trăng trắng hồi trước hay bán bánh bò ở mạn này giờ đâu rồi không. Bà già sẽ nín thinh không nói. Để mặc linh hồn ông cứ lang thang tìm hoài tìm hoài. Bà lão hấp xong bánh bò, dỡ ra đợi nguội. Bánh phồng lên vàng ruộm. Bà bảo tôi cậu cũng đang thương cô nào phải không. Nhìn cái bộ dạng cậu như người thất hồn lội khắp bưng biền tìm hoa bông súng mùa này, là tôi biết đang mang tâm sự dữ lắm. Nếu thương người ta thì cứ nói ra, đừng có giữ trong lòng rồi sau hối không kịp. Quay qua quay lại đã hết một đời người. Nguyên bảo tháng Tư làm gì có hoa súng. Cũng không bao giờ có hoa súng đỏ trên đời. Tôi mới trở vô Sài Gòn được hai ngày thì có ngay cái giấy gọi ra Bắc học lớp bồi dưỡng chính trị. Tôi biết cuộc nói chuyện ngắn ngủi giữa hai bố con ngày càng có khoảng cách với nhau khiến ông không thể yên lòng. Tuổi trẻ của bố tôi bị chiến tranh nghiền nát trên chiến trường B rồi đến chiến trường K, đến giấc mơ mấy chục năm sau hòa bình còn hoảng hốt bởi tưởng giặc đã xông vào tận cửa. Tôi thương ông, nhất là những ngày tháng Tư tháng Bảy thấy ông run rẩy đi thắp hương trên mộ đồng đội cũ. Bố chỉ có một mình tôi. Tôi có một mình Nguyên. Nguyên chẳng có gì. Tôi muốn tìm cho em một bông súng đỏ. ***
Tháng Tư nắng đỏ. Tôi ra sân bay Tân Sơn Nhất. Tôi hai mươi lăm tuổi, tóc nâu, mắt nâu. Ở bên Mỹ người ta bảo tôi là người Việt Nam. Về Việt Nam mọi người gọi tôi là người Mỹ. Tên tôi là Jacqueline Nguyễn. Bạn bè thường gọi tôi thân mật là Jenny. Chỉ mình anh gọi tôi là Nguyên. Tôi gặp anh lần đầu tiên trong bảo tàng lịch sử chiến tranh. Anh mặc bộ quân phục màu xanh rêu, vai đeo quân hàm, trên ngực áo có tấm biển nhỏ màu đỏ ghi họ tên. Anh là nhà báo, hôm đó được phân công đi cùng với đoàn của trường đại học Yale. Anh khá đẹp trai, nói tiếng anh rất chuẩn, nhưng trông không cuốn hút, thậm chí hơi khô khan. Mãi đến khi chiều tối, gặp lại nhau trong một quán cà phê bên sông Sài Gòn với mấy người bạn chung, tôi mới thật sự bị anh thu hút bởi cái giọng Bắc pha tiếng người Nam, nghe dễ thương đến lạ. Trong cái rì rầm thổn thức của sóng nước chiều hôm, anh nâng cây đàn ghi ta lên và hát: Một ngày mùa đông/ Một người Việt Nam/ Ra bên dòng sông/ Nhớ về cội nguồn/ Nhớ về đoạn đường/ Từ đó ra đi/ Nhớ về biển rộng/ Thuyền ghe lướt sóng/ Nhớ về nghìn trùng/ Nòi giống của chim. Tôi biết mình đã tìm lại được Việt Nam, vào cái buổi hoàng hôn hôm đó. Anh đã đưa tôi qua những cánh đồng mênh mang mùa nước nổi, đã cùng tôi ngắm bình minh lên nơi đất mũi Cà Mau, đã hát cho tôi nghe bài hát đẹp đến bi thương mà những người lính hát trước ngày ra trận. Tôi nhớ nụ cười anh rất hiền, giọng nói anh rất ấm, và anh luôn nhìn tôi với một cái nhìn khắc khoải. Nên tôi sẽ ra đi. Bởi tháng Tư làm gì có hoa súng đỏ. Dòng người nối dài chậm rãi bước qua quầy làm thủ tục. - Nguyên. Nguyên ơi. Có tiếng ai gọi từ phía sau, mắt tôi nhòa nước. Trên đời này có duy nhất một người gọi tôi bằng cái tên đó. Tôi đã bước qua bên kia cổng kiểm soát an ninh. Anh đứng ở phía bên này. Trên tay anh là một bông súng đỏ Chào nhé tháng Tư./