Địch Lộng (nghĩa thường là tiếng sáo thổi), nơi đây đã được vua Minh Mệnh ban tặng 5 chữ “Nam thiên đệ tam động”, tức động đẹp thứ ba ở trời Nam, sau Hương Tích và Bích Động.
Chỉ 2 tiếng từ Hà Nội theo quốc lộ 1A, chúng ta sẽ đặt chân đến quần thể chùa - động Địch Lộng của xã Gia Thanh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Không ồn ào, náo nhiệt như Hà Nội, nhịp sống nơi đây thanh bình và yên ả với dòng sông, cánh đồng và những ngôi nhà ngói san sát thấp thoáng dưới hàng tre.
Ấn tượng nhất là quần thể chùa - động Địch Lộng tọa lạc dưới một chân núi cao, phía trước là con sông Đáy chảy hiền hòa. Nhìn từ xa, lữ khách đã có thể cảm nhận về sự nguyên sơ, kỳ bí nơi này.
Dạo quanh một vòng kiến trúc chùa Địch Lộng, cứ ngỡ như đang lạc vào chốn thiền tịnh, an lành cửa Phật. Đầu tiên là khu vườn tháp cổ ngập tràn sắc xanh của cây cối, thoang thoảng mùi hương hoa, kế đó là chùa Hạ liền với dãy nhà tiền đường uy nghi, tựa sát vào chân núi như con rồng canh giữ toàn bộ di tích.
Bước chân lên những bậc đá lấm tấm phủ rêu, nhìn xuống là những mái ngói mũi hài xếp cong cong uốn lượn như sóng gợn… Ấn tượng hơn cả là ngôi đình 5 gian sừng sững được gọi là đình Đá với tất cả cột, xà đều bằng đá.
Đình có 16 cột bằng đá xanh nguyên khối, tròn, to và cao hơn 4m chạm nổi hình rồng uốn lượn trong mây. Tất cả 16 cột đá này đều được đặt trên những tảng đá cao 0,6m. Những tảng đá xanh nguyên khối chạm khắc tinh xảo cho thấy sự khéo léo, tài hoa của các nghệ nhân chạm khắc đá cố đô Hoa Lư xưa.
Từ chùa Hạ qua phủ Đức Ông, đi thêm 105 bậc đá thì đến cửa động. Cửa động có đề 6 chữ: Nham Sơn động, Cổ Am tự, là tên gọi xưa của Địch Lộng. Hai bên cửa động là hai tượng hộ pháp, bên trong là các ban thờ Phật bằng đá xanh. Phần vòm mái hang đá còn treo quả chuông nặng gần một tấn đúc từ thời Nguyễn.
Theo sự chỉ dẫn của người quản lý di tích, chúng ta sẽ men theo hang sáng và hang tối trong động. Bước vào hang sáng, nhiều du khách sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng những hình tượng Phật, voi quỳ, ngựa phục… do nhũ đá tạo thành. Đặc biệt, ở đây còn có “cổng trời” dài khoảng 50m, gió luôn thốc nhẹ vào hang nghe vi vu như tiếng sáo thổi.
Hang tối dài và rộng hơn hang sáng, được chia thành 3 ngăn. Nhũ đá ở đây muôn hình muôn vẻ như hình voi uống nước chum, hùm uống nước vại, khỉ cõng con, bà lão bán thuốc, cây tiền, cây vàng, cây bạc… và đặc biệt chúng luôn thay đổi màu sắc theo ánh sáng gợi cảm giác huyền ảo, nửa hư nửa thực. Khi thử gõ vào vách hang, ghé sát tai sẽ nghe thấy những âm thanh như tiếng chuông, tiếng đàn lảnh lót...
Trong hang tối còn có những bài thơ của các vua chúa, quan lại và các bậc tiền nhân từng du ngoạn qua đây như Lê Quý Đôn với bài thơ Vô đề, Bùi Văn Quế với Danh sơn đề bạt, Phạm Văn Nghị với bài ký Núi Địch Lộng…
Trong cảnh tranh sáng tranh tối hòa không khí man mác của hang động, chúng ta thử ngắm nghiền mắt lại, lắng nghe tiếng vi vu của gió, tiếng chin chít của đàn dơi trong động thấy như bao mệt nhọc đều tan biến, tâm hồn trở nên thanh tịnh.